.
--> Vắc-xin vi khuẩn và vắc-xin giải độc tố
--> Thí nghiệm 2: ở Philippins
--> Kết luận
.
VIÊM PHỔI - MÀNG PHỔI TRÊN HEO
SỰ BẢO VỆ TỐT KHÔNG GÂY STRESS: COGLAPIX®
(PORCINE PLEUROPNEUMONIA - GOOD PROTECTION WITHOUT STRESS: COGLAPIX®)
Tác giả: Eric Brunier, Giám đốc Thị trường khu vực về Heo của CEVA Animal Health Châu Á - Thái Bình Dương
.
VẮC-XIN VI KHUẨN VÀ VẮC-XIN GIẢI ĐỘC TỐ
Một loại vắc-xin mới kết hợp độc tố Apx với tất cả các kháng nguyên bám quan trọng sẽ giúp heo tiêm phòng tạo ra sự bảo hộ đầy đủ. Tuy nhiên, đa số các vắc-xin này vẫn gây ra các phản ứng không mong muốn (sốc vắc-xin) giống như các loại vắc-xin trước đó. Các phản ứng sốc xuất hiện sau tiêm phòng là do chất bổ trợ và hàm lượng lipopolysaccharids (LPS) có trong vắc-xin.
Bên cạnh tính hiệu quả trên lâm sàng và trên năng suất đàn heo sau tiêm phòng đạt được, sản phẩm COGLAPIX® của Ceva Santé Animale còn cho thấy ưu thế của mình trong việc khắc phục các nhược điểm thường gặp để có kết quả tiêm phòng tốt hơn. Với chất bổ trợ hydroxide nhôm (Al(OH)3) chất lượng cao kết hợp với hàm lượng LPS được kiểm soát tốt, COGLAPIX® chỉ tạo ra một vài phản ứng mức độ nhẹ sau khi tiêm.
Các thí nghiệm thực địa gần đây ở Thái Lan và Philippines đã chứng minh được lợi thế này trong điều kiện chăn nuôi thực tế tại châu Á. Các trại thường xảy ra dịch APP được lựa chọn thực hiện thí nghiệm, bằng việc so sánh hiệu quả giữa một vắc-xin thương mại chứa ba giải độc tố Apx (Apx I, Apx II và Apx III) và một vắc-xin OMP* 42 kDa (vắc-xin RV). Trước khi bắt đầu thí nghiệm, sự hiện diện của APP trong trại được xác định trước với xét nghiệm ELISA Checkit Apx IV® của IDEXX.
(*OMP: Outer Membrane Proteins - protein màng ngoài)
.
THÍ NGHIỆM 1
Ở Thái Lan, thí nghiệm được thực hiện ở trại heo công nghiệp nuôi 7.000 nái. 600 heo con sau cai sữa được chia thành hai lô với mỗi lô 300 con. Các heo con này được nuôi chung trong một khu (hệ thống kín có máy làm lạnh).
Chúng được tiêm phòng vào thời điểm 8 và 10 tuần tuổi. Lô thử nghiệm sử dụng COGLAPIX® và lô đối chứng sử dụng vắc-xin RV. Các thông số quan sát chính là phản ứng sau khi tiêm (PRV: post vaccination reactions) trên tất cả các con được lựa chọn vào thí nghiệm; năng suất (tăng trưởng và chuyển hóa thức ăn, kiểm soát trên 120 con mỗi lô) và bệnh tích phổi ở lò mổ (thực hiện trên 50 con mỗi lô). Trong đó, từng lô trong thí nghiệm sẽ chọn ra ba nhóm nhỏ (15 con mỗi nhóm) để đo nhiệt độ trực tràng sau khi tiêm phòng 1 giờ, 3 giờ và 24 giờ.
Bảng 1 So sánh hiệu quả lâm sàng ở thí nghiệm 1 tại Thái Lan
Kết quả
PVR: trại thực hiện đầy đủ tất cả các biện pháp cần thiết để làm giảm PVR. Không thấy hiện tượng gây sốc nào trong trại. Tuy nhiên, trong lô tiêm phòng với RV, 3 giờ sau khi tiêm phòng, khi cung cấp thức ăn, chỉ có 25% con lấy lại được sức khỏe và ăn uống bình thường, trong khi tỉ lệ này là 85% ở lô sử dụng COGLAPIX® (khác biệt rất có ý nghĩa p < 0,01). Nhiệt độ kiểm soát làm nổi bật sự khác biệt này hơn nữa: lô tiêm phòng với COGLAPIX® có nhiệt độ cơ thể trung bình thấp hơn lô tiêm phòng với RV (khác biệt rất có ý nghĩa p < 0,01). (Biểu đồ 1)
Biểu đồ 1: Nhiệt độ Cơ thể sau mũi tiêm thứ hai
Các bệnh tích ở phổi: được so sánh giữa hai lô, ngoại trừ một thông số: mức độ nghiêm trọng của phổi bị nhục hóa (Bảng 2). Các bệnh tích này ở lô dùng COGLAPIX® nhẹ hơn so với lô sử dụng vắc-xin RV.
Bảng 2 Bệnh tích phổi ở lò mổ của thí nghiệm 1 tại Thái Lan
Kết quả kinh tế: chính là so sánh giá trị thu được ở mỗi kg của heo thịt cuối cùng. Dù giá bán như thế nào, lợi nhuận có được chính là sự khác biệt giá trị kinh tế giữa hai lô (Bảng 3). Các heo con trong lô dùng COGLAPIX® dường như tạo ra giá trị tốt hơn cho chủ trại với lợi nhuận là 201 €. Cho mỗi 1 € đầu tư cho COGLAPIX®, chủ trại thu được 1,5 €, nhiều hơn khi sử dụng các vắc-xin khác.
Bảng 3 Dữ liệu kinh tế ở thí nghiệm 1 tại Thái Lan
.
THÍ NGHIỆM SỐ 2
Thí nghiệm này được giám sát bởi Giáo sư Romeo Sanchez Jr. - Trường Đại học CMV của Philippines - Los Baños; do các nghiên cứu sinh thực hiện.
Thí nghiệm được thực hiện ở trại heo giống, nuôi 500 nái. Điều kiện và mô hình bố trí thí nghiệm giống hoàn toàn như thí nghiệm 1. Trại này có xuất hiện dấu hiệu lâm sàng APP trong đợt nuôi trước.
Trong một phòng, 200 heo con sau cai sữa 5 tuần tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên vào 2 lô thí nghiệm. Trong mỗi lô, một chuồng gồm 10 con sẽ được chọn để đo nhiệt độ trực tràng sau mỗi mũi tiêm phòng trong suốt 48 giờ. Một lô sẽ được thử nghiệm với vắc-xin COGLAPIX® và lô đối chứng với vắc-xin có bản chất tương tự như thí nghiệm 1 mà chúng ta sẽ gọi là RV. Hai mũi tiêm phòng được thực hiện vào thời điểm 6 và 9 tuần tuổi.
Các heo con này được nuôi trong khu trại cho đến thời điểm 70 ngày tuổi và sau đó được chuyển sang khu vực nuôi heo thịt cuối cùng. Các lô được xác định bằng phương pháp bấm lỗ tai và không trộn lẫn với nhau trong suốt quá trình di chuyển. Trại thường xử lý heo con không đạt đủ trọng lượng cần thiết khi đến thời điểm di chuyển. 20 heo con của lô COGLAPIX® và 21 heo con của lô RV đã bị loại thải.
Bảng 4 Thí nghiệm số 2 ở Philippines
Kết quả
PVR: trại không thực hiện bất kì biện pháp đặc biệt nào để ngăn ngừa PVR. Không thấy hiện tượng heo chết sau khi tiêm phòng nhưng có xuất hiện một vài phản ứng không mong muốn sau khi tiêm (run, ói, co giật, xuất hiện ban đỏ thông thường - Hình 1) trong lô sử dụng vắc-xin RV: 2 con sau mũi thứ nhất và 1 con sau mũi thứ hai. Lô sử dụng COGLAPIX® không xuất hiện các phản ứng như vậy.
Hình 1: Heo bị PVR; nổi ban đỏ
Nhiệt độ trực tràng được kiểm soát cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa hai lô là trong lô COGLAPIX®: nhiệt độ heo sau tiêm phòng thấp hơn và ổn định hơn, đồng thời, thời gian có nhiệt độ cơ thể vượt quá 40oC ngắn hơn (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: Nhiệt độ trực tràng sau mũi tiêm đầu tiên (H0)
Bệnh tích phổi: Tại lò mổ, ở lô dùng COGLAPIX® chấm điểm phổi tốt hơn (Bảng 5). Trong nhóm này, không có bệnh tích viêm màng phổi; trong khi ở nhóm sử dụng RV, có đến 4% phổi xuất hiện dấu hiệu này.
Bảng 5 Chấm điểm phổi ở lò mổ của thí nghiệm 2 tại Philippines
Về mặt kinh tế, lô dùng COGLAPIX® dường như có chi phí tốt hơn với số tiền bỏ ra 375 €, thấp hơn so với lô dùng RV và tỉ lệ đầu tư là 1:2 (1 € đầu tư vào COGLAPIX® mang lại 2 € cho chủ trại khi so sánh với RV). (Bảng 6).
Bảng 6 Hiệu quả trên năng suất đàn heo sau tiêm phòng đạt được của thí nghiệm 2 tại Philippines
*ADG: tăng trọng bình quân một ngày
**FCR: tỉ lệ chuyển hóa thức ăn
.
KẾT LUẬN
Bảo vệ đàn heo trước bệnh APP gồm nhiều giải pháp kết hợp lại với nhau như phương pháp quản lý phương thức chăn nuôi có liên quan đến sự kiểm soát thú trong trại, chỉ sử dụng kháng sinh hợp lý để điều trị trong thời gian ngắn, và thực hiện tiêm phòng vắc-xin.
Có nhiều vắc-xin khác nhau để phòng ngừa bệnh này. Vắc-xin vi khuẩn chỉ đặc hiệu với một số lượng nhỏ serotype. Vắc-xin giải độc tố chứa 3 kháng nguyên Apx cho phép sự bảo vệ chống lại tất cả các serotype. Tuy nhiên, một số vắc-xin lại gây ra các phản ứng không mong muốn sau khi tiêm phòng (PVR), do đó chủ trại lo lắng và làm họ lâm vào tình huống chỉ áp dụng biện pháp tiêm phòng khi bắt buộc.
COGLAPIX® cung cấp sự bảo hộ chống lại tất cả serotype mà vẫn không gây ra PVR. Các thí nghiệm thực hiện ở điều kiện châu Á trong việc xem xét sự nhiễm bệnh APP trong trại khi so sánh việc áp dụng vắc-xin chứa ba độc tố Apx và vắc-xin OMP 42 kDa. Kết quả cho thấy COGLAPIX® mang lại sự khác biệt rõ rệt với sự không xuất hiện của PVR. Cùng lúc đó, dữ liệu kinh tế dường như cho thấy vắc-xin COGLAPIX® cho kết quả tốt hơn, và tỉ lệ lợi nhuận trong mỗi thí nghiệm khi đầu tư sử dụng COGLAPIX® là 1 : 1,5 và 1 : 2.
.
(Nguồn: “Axis Special Swine Issue - Asia Pacific” - Tháng Mười Một năm 2009)
.
<< Trở lại trang Bệnh Viêm phổi - màng phổi trên heo
<< Trở lại trang Các bệnh thường gặp
Chủ đề khác: bệnh thường gặp app heo coglapix tiêm phòng viêm phổi viêm màng phổi